X

Giải đáp thắc mắc: Phát xít Nhật xâm lược nước ta vào năm nào?

Việt Nam trong chiến tranh thế giới thứ hai là một giai đoạn lịch sử ngắn tại Việt Nam kể từ khi thế chiến thứ hai bùng nổ cho đến khi cuộc chiến này kết thúc. Vậy phát xít Nhật xâm lược nước ta vào năm nào, bài viết dưới đây sẽ giải đáp thắc mắc cho bạn.

Phát xít Nhật xâm lược nước ta vào năm nào?

Phát xít Nhật chiếm đóng Đông Dương

Sự bùng phát của Chiến tranh thế giới thứ hai ngày 1-9-1939 là một sự kiện ảnh hưởng lớn đến lịch sử Việt Nam cũng như việc Pháp chiếm Đà Nẵng năm 1858. Các phong trào đòi độc lập đã tăng lên ở Việt Nam, đặc biệt trong và sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, nhưng tất cả các cuộc nổi dậy và vận động chính trị đều thất bại để đạt được bất cứ nhượng bộ nào từ chế độ thực dân Pháp. Sau khi thế chiến thứ hai bùng nổ Pháp bị Đức Quốc xã chiếm đóng. Ngày 22-9-1940, một nước thành viên Phe Trục là Nhật Bản xâm lược Việt Nam nhằm xây dựng căn cứ quân sự để chống lại phe Đồng Minh ở Đông Nam Á.

Sau khi Việt Nam bị Nhật Bản chiếm đóng, tháng 3 1945, Nhật Bản lật đổ chính quyền Pháp ở Việt Nam, cầm tù các viên chức cấp cao Pháp và trả lại Việt Nam “nền độc lập” dưới “sự bảo hộ” của Nhật, với Bảo Đại là Quốc trưởng. Sự đầu hàng của Nhật vài tháng sau là một sự kiện Hồ Chí Minh (lúc đó Nguyễn Ái Quốc) đã đợi chờ từ khi Pháp bại trận năm 1940. Ngay khi xung đột chấm dứt, Việt Nam tuyên bố độc lập. Tuy nhiên không lâu sau, một cuộc chiến giành độc lập nổ ra giữa Việt Minh và Pháp sẽ kéo dài đến năm 1954.

Phát xít Nhật chiếm đóng Việt Nam

Bài viết liên quan: những bộ phim chiến tranh Mỹ Đức hay nhất

Sau đó Nhật, một đồng minh Phát Xít với Đức và Ý, đã yêu cầu chính quyền Vichy Pháp phong toả các đường tiếp tế tại Đông Dương cho quân đội Tưởng Giới Thạch, nhưng chính quyền Pháp không đồng ý. Ngày 5 tháng 9 năm 1940, quân đội Nhật dưới quyền chỉ huy của Tướng Takuma Nishimura bắt đầu tiến quân vô Đông Dương, với sự hổ trở bởi hải quân và không quân từ các hàng không mẫu hạm và đảo Hải Nam.

Với quân đội quá yếu, chính quyền Vichy Pháp phải đồng ý và buộc phải ký hiệp ước chấp nhận cho quân đội Nhật đóng quân tại Đông Dương và cho phép Nhật dùng Đông Dương để đưa quân và tiếp tế cho cuộc chiến về phía Trung Hoa và Miến Điện. Hiệp ước chỉ cho 6.000 lính Nhật đóng quân tại Đông Dương và tối đa 25.000 lính Nhật tạm thời đóng quân trên đường di chuyển tới mặt trận ngoài Đông Dương.

Hiệp ước vừa ký xong thì Nhật bắt đầu đưa Sư Đoàn 5 Bộ Binh dưới quyền chỉ huy của Trung Tướng Akihito Nakamura tiến vô Lạng Sơn trái với hiệp ước đã ký. Trận đánh Lạng Sơn giữa lính người Đông Dương dưới quyền chỉ huy Pháp và quân đội Nhật bắt đầu. Ngày 25 tháng 9, Lạng Sơn thất thủ mở đường cho quân Nhật tiến vô Hà Nội. Sáng 24 tháng 9, hải quân và không quân Nhật bắt đầu tấn công các vị trí phòng thủ của Pháp chung quanh Hải Phòng. Ngày 26 tháng 9, bộ binh Nhật đổ bộ rồi chiếm Hải Phòng và cuối ngày, Hà Nội cũng bị thất thủ. Kể từ đó, Đông Dương bị Nhật chiếm đóng cho tới khi Thế Chiến Thứ Hai kết thúc.

Phát xít Nhật trước nguy cơ buộc phải đầu hàng

Chiến tranh Thái Bình Dương nổ ra lúc 7 giờ 55 phút sáng ngày 7 tháng 12 năm 1941 (giờ Hawaii), khi Nhật không tuyên chiến mà bất ngờ tập kích Trân Châu Cảng (Pearl Harbor) trên đảo Hawaii, đánh chìm và làm hỏng 19 tàu chiến và diệt 2.300 lính Mỹ.

Phát Xít Nhật xâm lược nước ta vào năm nào?

Xem thêm: chiến tranh thế giới thứ 3

Cú đánh trộm này gây thiệt hại chưa từng thấy cho nước Mỹ, Tổng thống Mỹ Franklin D. Roosevelt gọi ngày 7 tháng 12 ấy là “một ngày ô nhục”. Hành động vô liêm sỉ của chính phủ Nhật đã kích động lòng căm phẫn sâu sắc của toàn dân Mỹ. Quốc hội Mỹ nhanh chóng nhất trí từ bỏ lập trường biệt lập không can dự vào công việc của các nước khác, chuyển sang chủ trương kiên quyết chống phát xít Nhật.

Ngày 8 tháng 12, Tổng thống Mỹ Franklin Roosevelt ra trước cuộc họp Quốc hội tuyên bố Mỹ tuyên chiến với Nhật. Ba ngày sau ông tuyên chiến với Đức và Ý.

Mỹ trở thành nước đồng thời chiến đấu trên cả hai mặt trận châu Âu và châu Á. Nước Nhật dại dột “đánh thức gã khổng lồ Mỹ” – như lời ta thán của chính đại tướng Tổng chỉ huy Hạm đội Liên hiệp Nhật Yamamoto, người vạch chiến dịch tập kích Trân Châu Cảng. Viên tướng này từng học ở Mỹ nên biết rất rõ tiềm lực kinh tế và quân sự cũng như khoa học kỹ thuật của Mỹ, ông tin rằng Nhật không thể nào thắng nổi Mỹ. Phát biểu này khiến ông bị giới quân phiệt Nhật gọi là “Nhật gian” và đòi xử tử.

Do giữ quan điểm mơ hồ về quân phiệt Nhật nên trong một thời gian dài Mỹ thiếu chuẩn bị chiến đấu với Nhật, năm 1941 trên vùng Thái Bình Dương Mỹ chỉ có 3 tàu sân bay, 9 thiết giáp hạm, 22 tàu tuần dương và 54 tàu khu trục; trong lúc đó phía Nhật tương ứng có 10, 10, 38 và 113 tàu, vì vậy quân đội Mỹ ban đầu phải rút lui chiến thuật.

Ngay từ tháng 5, Gore đã kiến nghị với Tổng thống Truman là chỉ cần Tuyên ngôn này đưa ra tiền đề Nhật có thể được phép giữ lại chế độ Thiên Hoàng, thì chắc chắn Nhật sẽ chấp nhận đầu hàng ngay. Thiên Hoàng là thống soái tối cao của quân đội Nhật; xưa nay hoàng tộc Thiên Hoàng được dân Nhật coi là dòng dõi thần thánh không thể bị tiêu diệt; Thiên Hoàng bị diệt nghĩa là nước Nhật bị diệt.

Thế nhưng hồi ấy dư luận Mỹ và đa số quan chức trong Chính phủ Mỹ đều đòi đưa Thiên Hoàng ra xét xử tội ác chiến tranh, phản đối giữ lại chế độ Thiên Hoàng. Stimson đành đề nghị Truman dùng hình thức phi chính thức để truyền đạt cho phía Nhật biết ý định nói trên của Mỹ.

Ngày 26 tháng 7, Tuyên ngôn Potsdam chính thức công bố. Máy bay Mỹ thả xuống khắp đất Nhật hàng triệu tờ truyền đơn in Tuyên ngôn này bằng tiếng Nhật.

Điều 13 của Tuyên ngôn viết: “Chính phủ Nhật phải tuyên bố toàn bộ quân đội Nhật lập tức đầu hàng vô điều kiện”, “Bất cứ sự lựa chọn nào khác đều chỉ có thể dẫn đến sự huỷ diệt nhanh chóng và toàn diện của nước Nhật”.

3/5 - (5 bình chọn)
Trang Nhung:
Related Post